==HOTLINESHOW== ==HOTLINESHOWOTHER==

Tham gia Chương trình khách thăm quan sẽ được viếng thăm những di tích lịch sử hào hùng nơi ghi dấu công lao to lớn của cha ông. Chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn một số địa điểm thăm quan Côn Đảo là các di tích lịch sử nổi tiếng như: Biệt giam Chuồng Cọp, Khu Biệt Giam Chuồng Bò, trại tù Phú Sơn và nghĩa trang Hàng Dương

Biệt Giam Chuồng Cọp - Côn Đảo

Chuồng cọp gồm hai khu, mỗi khu 2 dãy, mỗi dày 20 chuồng, phía trên có giàn song sắt, có hành lang để gác ngục hành hạ người tù bất kể lúc nào chúng muốn. Ngoài ra, còn có 60 phòng không có mái che được gọi là phòng "phòng tắm nắng" (chia làm 4 dãy, mỗi dãy 15 phòng). Phòng tắm nắng còn là nơi dùng để hành hạ phơi nắng, phơi mưa người tù hoặc là lôi người tù ra đó để đánh đập tra tấn..

Biệt Giam Chuồng Cọp - Côn Đảo

Ngày 6/6/1964, Mỹ đã đưa gần 500 tù chính trị câu lưu về biệt giam chuồng cọp. Từ 1965, tù chính trị chống chào cờ, chống ly khai ở hầm đá, ở trại II, trại III đều bị đưa về chuồng cọp. Từ năm 1968, họ đã còng tất cả các tù nhân chuồng cọp, dùng sào nhọn bịt đồng từ trên cao chọc xuống, bớt cơm, bớt nước, không cho tắm rửa, không cho ăn rau, khiến hơn 4.000 tù nhân bị suy dinh dưỡng trầm trọng. Các cuộc đấu tranh của tù nhân đều bị gậy bịt đồng và vôi bột đàn áp.

Côn Đảo - nhà tù lớn nhất và thuộc loại lâu đời nhất ở VN. Trong 113 năm tồn tại (1862-1975), nơi đây đã giam cầm, đày đọa hàng chục vạn chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước VN.
Côn Đảo cũng là “trường đại học” lớn nhất của những người cộng sản. Với Côn Đảo không chỉ là những câu chuyện kiên trung của người cách mạng, mà còn là những câu chuyện tình người, tình yêu trong chốn “địa ngục trần gian”.
Chuồng Cọp là nơi giam cầm và tra tấn tù nhân dã man và tàn bạo nhất của hệ thống nhà tù Côn Đảo. Tại đây, hàng ngàn tù nhân nam lẫn nữ đã bị hành hạ khổ sai, nhiều chiến sĩ cách mạng, người yêu nước đã hi sinh vì những nhục hình ở nơi này.

Khu trại giam được xây dựng năm 1940 trên địa bàn huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Trại giam có tổng diện tích: 5.475m2. Trong đó, diện tích phòng giam: 1.408m2, Phòng tắm nắng: 1.873m2, Khoảng trống: 2.194m2. Chuồng cọp gồm hai khu, mỗi khu 2 dãy, mỗi dày 20 chuồng, phía trên có giàn song sắt, có hành lang để gác ngục hành hạ người tù bất kể lúc nào chúng muốn. Ngoài ra, còn có 60 phòng không có mái che được gọi là phòng "phòng tắm nắng" (chia làm 4 dãy, mỗi dãy 15 phòng). Phòng tắm nắng còn là nơi dùng để hành hạ phơi nắng, phơi mưa người tù hoặc là lôi người tù ra đó để đánh đập tra tấn..

Ngày 6/6/1964, Mỹ đã đưa gần 500 tù chính trị câu lưu về biệt giam chuồng cọp. Từ 1965, tù chính trị chống chào cờ, chống ly khai ở hầm đá, ở trại II, trại III đều bị đưa về chuồng cọp. Từ năm 1968, họ đã còng tất cả các tù nhân chuồng cọp, dùng sào nhọn bịt đồng từ trên cao chọc xuống, bớt cơm, bớt nước, không cho tắm rửa, không cho ăn rau, khiến hơn 4.000 tù nhân bị suy dinh dưỡng trầm trọng. Các cuộc đấu tranh của tù nhân đều bị gậy bịt đồng và vôi bột đàn áp.

Côn Đảo - nhà tù lớn nhất và thuộc loại lâu đời nhất ở VN. Trong 113 năm tồn tại (1862-1975), nơi đây đã giam cầm, đày đọa hàng chục vạn chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước VN.

Côn Đảo cũng là “trường đại học” lớn nhất của những người cộng sản. Với Côn Đảo không chỉ là những câu chuyện kiên trung của người cách mạng, mà còn là những câu chuyện tình người, tình yêu trong chốn “địa ngục trần gian”.
Chuồng Cọp là nơi giam cầm và tra tấn tù nhân dã man và tàn bạo nhất của hệ thống nhà tù Côn Đảo. Tại đây, hàng ngàn tù nhân nam lẫn nữ đã bị hành hạ khổ sai, nhiều chiến sĩ cách mạng, người yêu nước đã hi sinh vì những nhục hình ở nơi này.

“Bây giờ nhớ lại vẫn còn cảm giác rùng mình. Phụ nữ ở trong lao tù bao giờ cũng phải chịu nhiều đau khổ hơn nam giới. Những đòn tra tấn dã man, tàn bạo xảy ra với các chị em bị giam ở khu chuồng cọp tưởng như không thể xảy ra trong thế giới văn minh, nhưng đã xảy ra, kinh hoàng” - bà Hoàng Thị Khánh, trưởng ban liên lạc tù chính trị Côn Đảo, nguyên chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP.HCM, hồi ức về những ngày trong ngục tù Côn Đảo. Người nào đã bị đưa vào chuồng cọp thì xem như cái chết đã cận kề. Tù nhân vào đây khoảng ba tháng thường là sẽ chết vì bị xiềng chân, bị tra tấn, bị bỏ đói.

Cuối năm 1969, trước phong trào đấu tranh quyết liệt của các nữ tù nhân ở khám Chí Hòa, chính quyền Sài Gòn thấy tình hình bất lợi nên quyết định đày nữ tù nhân ra Côn Đảo. Cuộc đi đày lần đó được gọi là “đi bằng lưng”, bởi các chị chống quyết liệt, những người ép các chị đã đánh đập bằng dùi cui, ma trắc, lựu đạn cay rồi còng lại, vác từng người lên lưng, vứt lên xe chở đi.

Ra đến đảo, 342 chị em bị đẩy ngay vào chuồng cọp. Chuồng cọp có hai khu, mỗi khu có 60 chuồng và 30 hầm đá, giam giữ trên 400 người. Có thời kỳ các khu chuồng cọp nhốt cả hàng ngàn người. Cứ năm người bị nhốt vào một chuồng bề ngang 1,45m, dài 2,5m. Ăn, ngủ, tiểu tiện gì cũng chung một chỗ. Chị em phải thay phiên nhau kẻ ngồi, người nằm. Đêm ngủ phải thay phiên nhau kẻ thức, người ngủ, phải thường xuyên nằm chồng lên nhau như “cá mòi xếp hộp”.

“Ăn cơm nấu lõng bõng với mắm thúi, giòi bọ và khô mục đắng nghét. Chén đũa để trong thùng đất cát bụi bặm, cho bầy chó liếm đi liếm lại rồi sớt cơm cho tù ăn” - nữ tù chuồng cọp Nguyễn Thị Ni, quê ở Gò Công Đông, Tiền Giang, kể. Khi tắm, chị em gom phần nước của năm người lại cho một người tắm, luân phiên nhau năm ngày mỗi người được tắm một lần.

Nước tắm cũng phải dùng lại tới ba bốn lần: nước “nhất” tắm trên đầu, nước “nhì” tay chân, cho đến nước “chót” thì đã đen ngòm. “Nước này được tận dụng tiếp để giặt đồ” - bà Hoàng Thị Khánh nhớ lại. Để duy trì được sức đấu tranh, chị em phải bắt mối cánh, thằn lằn bò trên vách đá ăn cho có chất đạm. Ở đây chim sẻ rất nhiều, thỉnh thoảng có con rớt xuống chuồng cọp, chị em liền bắt lấy, nhổ lông, xé tơi ra cho vào chảo ủ nóng, lát sau đem ăn.
Trong khu chuồng cọp lúc đó có má Sáu bị mù hai mắt, chị em thường gọi là bà Sáu mù. Bà tên thật là Nguyễn Thị Chỉ, quê Quảng Nam, dù đã 70 tuổi, mắt bị mù nhưng vẫn khí phách đấu tranh chống chào cờ, chống nội qui của nhà tù. Một lần, nhà tù bày kế đưa bà ra giam chung với những chị đã chịu chấp hành nội qui, đưa ra một mâm cơm thịnh soạn gồm đĩa rau muống và trứng vịt luộc nóng hổi. Biết đây là mưu kế, bà buông đũa không ăn, xin về lại chung chuồng với chị em đấu tranh, chấp nhận ăn khô mục mắm thúi mà kiên trung cùng chị em.

Chỉ trong vòng năm năm, tòa án quân sự đặc biệt của chính quyền Sài Gòn đã tuyên án tử hình hơn 200 tù chính trị, hầu hết thuộc Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. “Có một kỷ niệm cứ in đậm mãi trong ký ức của tôi về tình đồng chí, về sự cảm phục một con người yêu nước. Đó là kỷ niệm về nhà sư yêu nước Thích Hành Tuệ, một người tu hành nhưng có lòng yêu nước nồng nàn bị giam giữ trong chuồng cọp, kiên quyết không khuất phục trước mọi đòn tra tấn dã man và hi sinh nơi chốn lao tù”

Năm 1966, ông bị bắt, chính quyền Sài Gòn đưa ông ra Côn Đảo lưu đày và nhốt trong chuồng cọp. Tại Côn Đảo,ông kiên quyết không chào cờ chính quyền Sài Gòn và không chịu hô khẩu hiệu “chống cộng”, giám thị nhà tù đánh ông rất tàn bạo nhưng vẫn không khuất phục được ông. Tháng 7-1970, khi phái đoàn Quốc hội Mỹ vào thăm chuồng cọp, nhà sư đã lớn tiếng tố cáo: “Tôi là một tăng sĩ Phật giáo, tôi bị nhốt vào đây vô cớ chỉ vì tôi yêu nước, tôi đấu tranh đòi lập lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam”.

Nhà sư đã cùng với các tù nhân chuồng cọp la to: “Tôi đói, tôi khát, tôi bị đòn...”. Khi phái đoàn đi khỏi, các cai ngục lôi nhà sư ra đánh trả thù. Một cai ngục hỏi: “Tại sao mày đi tu mà không chịu chào cờ quốc gia? Không chịu hô đả đảo Hồ Chí Minh?”. Nhà sư oằn người vì đòn roi nhưng vẫn hiên ngang nói: “Cụ Hồ là vị anh hùng cứu quốc của dân tộc nên tôi luôn kính trọng, làm sao mà đả đảo được. Còn lá cờ ba que không phải là cờ của tổ quốc tôi”.

Khu Biệt Giam Chuồng Bò

Tham Quan Khu biệt lập chuồng bò do Mỹ xây dựng năm 1930 được mở rộng thêm vào năm 1963 thời Mỹ-Nguỵ còn gọi là trại An Ninh Chuồng Bò.

Khu Biệt Giam Chuồng Bò

- Xây dựng năm: 1930

- Tổng diện tích: 4.410m2
- Diện tích phòng giam: 547m2
- Chuồng trại: 270m2
- Khoảng trống: 3.293m2
- Bao gồm: 9 phòng biệt giam, 24 hộc chứa heo, 2 chuồng nhốt bò, một hầm chứa phân bò.
Năm 1963: Để mở rộng nhà tù Mỹ-nguỵ sữa chữa 24 hộc nuôi heo thành 24 phòng giam.
Hầm phân bò: Sâu 3m chia làm 2 ngăn có hệ thống cống ngầm từ chuồng nuôi bò dẫn sang.
Địch sử dụng hầm phân bò này để ngâm người tù xuống đó tra tấn hành hạ cực kỳ dã man và bí mật.

Người ta nói rằng mãi đến năm 1975, khi giải phóng Côn Đảo người dân ở đây nghe có tiếng kêu dưới hầm phân bò và phát hiện ra có người đang bị ngâm ở dưới, hầm phân có chiều sâu 3m, chứa phân từ chuồng bò trong ảnh trên dùng để ngâm những người tù, khi được cứu người tù đó đã bị giòi ăn đến xương, trên đường đưa vào đất liền cấp cứu thì chết vì sức yếu. Đây là cách tra tấn rùng rợn được phát hiện sau cùng.

Trại Tù Phú Sơn, Phú Hải

Đây là một trại giam cổ nhất Côn Đảo, còn có tên là Bange 1, được Pháp xây dựng năm 1862 với diện tích khỏang 12.000m2, với 10 phòng giam tập thể, 20 xà lim (hầm đá), 2 hầm xay lúa (nơi bác Tôn Đức Thắng bị giam giữ), 1 khu đập đá (nơi cụ Phan Chu Trinh bị đày và để lại bài thơ “ Đập đá Côn Lôn”.

Trại Tù Phú Sơn, Phú Hải

Với tên gọi là Trung tâm cải huấn Phú Hải - Trại Phú Tường, Chuồng Cọp được Pháp xây dựng vào năm 1940, có diện tích 1475m2, diện tích phòng giam là 14.8m2, phòng tắm nắng là 1873m2. Bao gồm 2 khu với 120 phòng biệt giam.

Tuy được xây dựng và dùng làm nơi tra tấn sớm như vậy nhưng Chuồng Cọp vẫn không bị phát hiện, mỗi người tù đến đây đều bị bịt mắt khi chuyển tù nên không ai biết mình bị đi đâu, và thông thường đã vào đây thì hết 8 phần là chết.

Chuyện phát hiện ra Chuồng Cọp cũng thật ly kỳ, người ta kể rằng vào những năm 1970 các nhà báo người Việt cũng như người Mỹ vẫn nghe đồn về một trại giam có tên Chuồng Cọp ở Côn Đảo nhưng tất cả mọi sư điều tra đều bị thất bại. Cho đến khi có 5 sinh viên Cao Nguyên Lợi, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Thanh Tòng, Nguyễn Minh Trí, Trần Văn Long từ Chuồng Cọp Côn Đảo trở về tố cáo trước Hạ nghị viện Sài Gòn, lấy mạng sống của chính mình để khẳng định với báo chí Chuồng Cọp là có thật. Đến ngày 30/6/1970, phái đoàn dân biểu Mỹ cùng các nhà báo quốc tế cùng đến Côn Đảo để điều tra theo lời của các sinh viên kể trên.

Trong đòan có phóng viên Don Luce, là phóng viên đã ở chiến trường Việt Nam nhiều năm nên ông rất am hiểu tình hình. Cầm trong tay tấm sơ đồ do các sinh viên vẽ cả đòan tìm đến được đúng nơi mà các sinh viên mô tả là trại có hai lần cửa vào, nếu vào thẳng thì sẽ vào một trại tù bình thường, nếu rẽ ngang thì sẽ dẫn đến vườn rau, ở vườn rau sẽ có cánh cửa nhỏ dẫn sang Chuồng Cọp. Khó một điều là các sinh viên bị bịt mắt nên không nhớ quẹo trái hay phải, Don Luce khéo léo hỏi Nguyễn Văn Vệ, viên Trung tá khét tiếng tàn ác cai quản tù ở đây, rằng ở đây tù nhân có được cải thiện về ăn ở bằng cách trồng trọt hay không? Nguyễn Văn Vệ nhiệt tình dẫn cả đòan rẽ phải để đến được vườn rau và như vậy Don Luce buộc Nguyễn Văn Vệ phải mở cánh cửa nhỏ, Chuồng Cọp bị phát hiện và bị đem ra chất vấn ở hạ nghị viện Mỹ cũng như bị tố cáo trên các tờ báo lớn gây ra một là sóng phản đối chiến tranh ở Việt Nam trên tòan thế giới.

Cũng đã đi nhiều nơi, đã từng thấy những cây bàng mùa thay lá, nhưng điều đặc biệt tôi thấy là những cây bàng ở Côn Đảo mùa thay lá với những chiếc lá bàng rất đỏ, sắc đỏ thắm như màu cờ, như màu máu. Người ta nói rằng, có hơn 20.000 người đã chết ở đây, số hài cốt tìm được chỉ là một phần rất nhỏ.

Nghĩa Trang Hàng Dương

Nghĩa trang Hàng Dương rộng 190.000m2, gồm 3 khu : khu A, khu B và khu C. Theo số liệu ước định có khoảng: 20.000 tù nhân đã chết ở Côn Đảo. Tuy nhiên không phải tất cả đều nằm ở Hàng Dương. Nghĩa địa tù được lập ở khu vực Chuồng Bò, sau dời lên Hàng Keo. Từ năm 1944, chế độ khủng bố trắng sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã giết hại hàng ngàn tù nhân.

Nghĩa Trang Hàng Dương

Nghĩa địa Hàng Keo hầu như hết chỗ, thực dân Pháp mở nghĩa địa Hàng Dương để chôn tù. Tính đến ngày Côn Đảo hoàn toàn giải phóng (1975), nghĩa trang lịch sử này tròn 35 tuổi. Trong vòng 35 năm ấy, ước tính khoảng 6.000 tù nhân bị giết hại. 

Khu A nghĩa trang, nơi có phần mộ cụ Nguyễn An Ninh và đồng chí Lê Hồng Phong là nơi chôn những ngôi mộ đầu tiên. Mỗi người tù xấu số được liệm bằng 2 chiếc bao bàng (đan bằng loại cỏ ống), cột 7 nút lại, rồi đưa ra vùi qua loa xuống cát. Có thời gian, mỗi ngày từ 15 đến 20 người tù chết, tất cả được chất lên xe bò chở ra hàng Dương vùi chung một hố.

Năm 1944, khu A đã chôn chật mộ, nhà tù đã mở rộng nghĩa trang về phía nam, tức khu B hiện nay. Hài cốt lớp tù nhân kháng chiến chống Pháp (1945-1954) được chôn kế tiếp từ đồi cát chạy dài xuống phía đông nam, nơi có phần mộ người thiếu nữ anh hùng Võ Thị Sáu.

Hài cốt lớp tù nhân chống Mỹ được chôn tiếp vào phần còn lại của khu B và chôn tiếp qua khu C. Gần 500 tù chính trị câu lưu chống ly khai Đảng cộng sản trong những năm 1957-1963 được chôn trong khu B.

Mỗi ngôi mộ ở nghĩa trang này không chỉ là một số phận bi hùng, một chứng tích tội ác của thực dân đế quốc mà còn âm vang những trang sử hào hùng của cuộc đấu trang trong tù, tỏa sáng chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Sân hành lễ nằm ở trung tâm nghĩa trang với một tượng đài mang một hình tượng Trao Aùo. Tượng đài cao 9m, nặng 25 tấn được khởi dựng ngày 16/7/1980. Dưới chân bức tượng có ghi hàng chữ “Vĩnh biệt các đồng chí”. Tượng đài được tái tạo từ câu chuyện “ Chết còn cởi áo cho nhau”. Người trao áo là ông Vũ Văn Hiếu, nguyên là bí thư đầu tiên của đặc khu mỏ Hòn Gai (tháng 10/1930). Người nhận áo nguyên là cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Nghĩa trang Hàng Dương được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt. Nghĩa trang hàng Dương với hàng ngàn nấm mộ có tên và không tên là bằng chứng hùng hồn về tội ác của đế quốc, thực dân đối với dân tộc ta. Đó là nơi yên nghỉ của hàng ngàn người con ưu tú của dân tộc ta, đã đối mặt với kẻ thù giữa lao tù, xiềng xích, trong cuộc đấu trang vì độc lập, tự do và chủ nghĩa.

Những Địa Điểm Checkin Côn Đảo Hấp Dẫn ( P2 )

Những Địa Điểm Checkin Côn Đảo Hấp Dẫn ( P2 )
14 1 15 29 bài đánh giá
==HOTLINESHOW==